GS Phan Huy Lê. Ảnh: Khoa học và phát triển.
Giáo sư Phan Huy Lê sinh ngày 23/2/1934 tại làng Thu Hoạch, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh - một vùng quê văn hiến của xứ Nghệ, giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, trọng tình nghĩa, cần cù và hiếu học. Cả hai dòng họ nội, ngoại của GS. Phan Huy Lê đều là những dòng họ khoa bảng nổi tiếng với những danh nhân văn hoá lớn như Phan Huy Cẩn, Phan Huy Ích, Phan Huy Thực, Phan Huy Vịnh, Phan Huy Chú, Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tiếu, Cao Xuân Huy... Cụ thân sinh là Phan Huy Tùng, tiến sĩ Nho học, từng làm quan trong triều đình Huế, nổi tiếng thanh liêm, phúc đức, nhân hậu, hết mực yêu con, quý cháu.
Năm 1952, khi 18 tuổi, Phan Huy Lê rời gia đình ra học Dự bị Đại học ở Thanh Hoá và tại đây ông có cơ hội được tiếp xúc với những trí thức cách mạng hàng đầu của đất nước. Vốn là học sinh có năng khiếu và ham mê khoa học tự nhiên, ông dự định chọn Toán - Lý cho tương lai nghề nghiệp của mình, nhưng dường như số phận đã định trước cho ông con đường trở thành nhà Sử học. GS. Trần Văn Giàu và GS. Đào Duy Anh là những người đầu tiên nhận ra những phẩm chất ở Phan Huy Lê và hướng ông vào học Ban Sử - Địa, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Năm 1956, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thành lập gồm 4 khoa: Toán - Lý, Hoá - Sinh, Văn và Sử. Phan Huy Lê vừa tốt nghiệp cử nhân Sử - Địa đã được nhận ngay vào Tổ Cổ sử thuộc Khoa Lịch sử dưới sự chỉ dẫn trực tiếp của GS. Đào Duy Anh. Ngay từ khi đi học, ông đã được các thầy tin cậy giao làm trợ lý giảng dạy. Sau khi tốt nghiệp, ông vừa chính thức đứng lớp, vừa được các giáo sư Trần Văn Giàu, Đào Duy Anh giao cho viết bài giảng và đảm nhiệm các công việc của những chuyên gia thực thụ. Có lẽ vì thế mà chỉ 2 năm sau, khi GS. Đào Duy Anh chuyển công tác về Viện Sử học, mới 24 tuổi đời, ông đã vững vàng trong trọng trách của một Chủ nhiệm bộ môn đứng mũi chịu sào tổ chức và xây dựng một ngành học giữ vị trí then chốt trong hệ thống các môn học về khoa học xã hội Việt Nam.
Dấn thân vào nghề Sử, Phan Huy Lê quan niệm kinh tế - xã hội là cơ sở nền tảng của toàn bộ lịch sử. Nước ta là một nước nông nghiệp nên nghiên cứu kinh tế - xã hội Việt Nam truyền thống không thể không bắt đầu từ nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Điều này giải thích vì sao những ấn phẩm đầu tiên trong sự nghiệp khoa học của ông là Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ (1959), Đặc điểm của phong trào nông dân Tây Sơn (1959), Lao động và làm thuê trong xã hội phong kiến Việt Nam (1959)… Tính ra có 5 công trình lớn trong giai đoạn 5 năm đầu bước vào nghề của ông thuộc về lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Khi Phan Huy Lê vừa mới tạo lập được vị trí của mình trong nghiên cứu về kinh tế - xã hội thì cũng là lúc đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc. Tự ý thức trách nhiệm công dân phải tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc, Phan Huy Lê chuyển sang nghiên cứu về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và những trận đánh lớn trong lịch sử. Những công trình Khởi nghĩa Lam Sơn (1965); Truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam (1973), Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc (1976), Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 và 1288 (1988)... được hoàn thành trong điều kiện như thế và đã trở thành những tác phẩm lịch sử quân sự tiêu biểu.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Phan Huy Lê tiếp tục dành nhiều tâm huyết cho mảng đề tài chống ngoại xâm. Trong khoảng 15 năm (1975-1989), ông viết đến trên 24 công trình lớn, chưa kể hàng chục bài báo và tham luận về đề tài này. Nói đến Phan Huy Lê người ta nghĩ ngay đến chuyên gia hàng đầu về lịch sử chống ngoại xâm với số lượng vượt trội các công trình nghiên cứu và với những tổng kết sâu sắc đã trực tiếp góp vào những chiến công chung của đất nước. Mảng đề tài này, ông có 50 trên tổng số 408 công trình đã hoàn thành (chiếm 12,2%).
Tuy nhiên, điều mà Phan Huy Lê trước sau đặc biệt quan tâm là những vấn đề về kinh tế - xã hội, hình thái kinh tế - xã hội và các thể chế chính trị - xã hội trong lịch sử Việt Nam trước Cận đại. Mỗi khi có cơ hội, ông lại tranh thủ trở về với đề tài chế độ ruộng đất, kinh tế nông nghiệp, nông dân và làng xã cổ truyền. Số công trình ông viết riêng về mảng kinh tế - xã hội là 51 (chiếm 12,5%), trong đó tiêu biểu là các tác phẩm viết về phong trào nông dân Tây Sơn, các cuốn sách, chuyên đề về sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội, kết cấu kinh tế - xã hội, làng xã của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ… Ngoài ra, ông luôn tiên phong đi sâu khai thác những nguồn tư liệu liên quan như địa bạ, châu bản, gia phả... kết hợp với điều tra khảo sát thực địa.
Phan Huy Lê bắt đầu mở rộng sang nghiên cứu lĩnh vực văn hoá - truyền thống từ giữa những năm 1970 và sự quan tâm của ông đến lĩnh vực này càng ngày càng toàn diện với số lượng trung bình là 64 (chiếm 15,72%). Những công trình tiêu biểu là Truyền thống và cách mạng (1982), Vấn đề dân chủ trong truyền thống Việt Nam (1988), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay (3 tập, 1994, 1996, 1997), Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống và hiện đại (2002) và hệ thống các bài viết về di sản văn hoá của di sản Trung tâm Hoàng thành Thăng Long...
Có thể hình dung toàn bộ trước tác của GS. Phan Huy Lê được chia thành 7 lĩnh vực chủ yếu, với số công trình từ 41 đến 92 (trung bình 58) cho mỗi lĩnh vực. Nhưng trách nhiệm lớn nhất đặt ra cho GS. Phan Huy Lê không phải là từng mảng lịch sử cụ thể mà là tổng kết lịch sử đất nước. Ngay từ năm 1959, nghĩa là khi mới bắt tay viết những trang bản thảo đầu tiên, ông đã có một tập bài giảng Lịch sử Việt Nam từ 1406 đến 1858. Liên tiếp 2 năm sau, ông cho ra mắt Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập II (1960) và Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập III (1961), góp phần làm nên tầm vóc của Khoa Lịch sử. Năm 1971, ông cùng Trần Quốc Vượng viết Lịch sử Việt Nam tập I, được coi là cuốn thông sử đầu tiên của chế độ mới. Trong thời gian này hàng loạt các bài giảng, giáo trình khác về Lịch sử Việt Nam ra đời (vào các năm 1966, 1970, 1978...) làm cơ sở cho sự xuất hiện Lịch sử Việt Nam tập I (1983) - một cuốn sách tổng kết lịch sử Việt Nam từ thời kỳ nguyên thuỷ đến thế kỷ thứ X tương đối đầy đủ và cập nhật. Đặc biệt gần đây, trong đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước xây dựng bộ sách Lịch sử Việt Nam 4 tập, GS. Phan Huy Lê vừa là chủ biên, vừa là tác giả chính của 2 tập I và II, được coi là tổng kết cao nhất về giai đoạn lịch sử từ nguồn gốc cho đến giữa thế kỷ XIX.
Không chỉ dồn tâm, dồn sức viết các bộ thông sử, các tập giáo trình, Phan Huy Lê còn là tác giả của nhiều công trình lịch sử địa phương. Trân trọng và đề cao kinh nghiệm viết sử truyền thống, ông lại chính là người đi tiên phong hiện đại hoá và cập nhật các phương pháp nghiên cứu mới. Số lượng các công trình tổng kết lịch sử, những bài giảng, giáo trình và các bộ thông sử có tầm khái quát cao của ông vì thế lên đến 41 công trình (chiếm 10,0%), tạo nên sự hoàn hảo và trội vượt trong phẩm chất và tính cách sử học Phan Huy Lê.
Tầm uyên bác trong các công trình Sử học của GS. Phan Huy Lê bắt nguồn từ trách nhiệm cao cả của một người Thầy, vì theo ông, dạy đại học là dạy kết quả nghiên cứu của chính mình.
Hơn nửa thế kỷ qua, ngoài việc giảng dạy chính ở Khoa Lịch sử, Ông còn dạy cho nhiều lớp ở trong và ngoài Đại học Quốc gia Hà Nội, các trường đại học trên thế giới, như Đại học Paris VII (Pháp), Đại học Amsterdam (Hà Lan)... Hàng nghìn học trò qua ông đào tạo, nhiều người đã thành đạt, đang giữ những cương vị quan trọng trong các cơ quan nghiên cứu và giảng dạy ở trung ương và địa phương, ở trong nước và nước ngoài. Ông cũng là một trong những chuyên gia đầu tiên của nền giáo dục mới Việt Nam tham gia giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn và phản biện nghiên cứu sinh trong nước và quốc tế, trong đó có 17 học trò trực tiếp của ông đã bảo vệ thành công các luận án tiến sĩ, tiến sĩ khoa học.
Bên cạnh nhiệm vụ đào tạo Sử học, ông còn được giao trách nhiệm xây dựng hai ngành học mới là Đông phương học và Việt Nam học. Từ năm 1988 cho đến nay, GS. Phan Huy Lê liên tục là Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Ông còn giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt hay là uỷ viên của nhiều Hội đồng Quốc gia như Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa, Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Hội đồng Lý luận Trung ương, Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội, Hội đồng Học hàm Nhà nước, Hội đồng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước, Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia... Ở cương vị nào ông cũng đều có những đóng góp xuất sắc.
Ông được phong học hàm Giáo sư (1980), Nhà giáo Ưu tú (1988), Nhà giáo Nhân dân (1994); được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì (1985), Huân chương Lao động hạng Nhất (1998), hạng Nhì (1994), hạng Ba (1974); được tặng Giải thưởng Nhà nước (2000), Giải thưởng Quốc tế Văn hoá châu Á Fukuoka, Nhật Bản (1996), Huân chương Cành cọ Hàn lâm của chính phủ Pháp (2002), Công dân ưu tú của Thủ đô (2010), danh hiệu Viện sĩ Thông tấn nước ngoài của Viện Hàn lâm Văn khắc và Mỹ văn thuộc Học viện Pháp quốc (2011).
Và cao hơn tất cả, tên tuổi, tài năng và nhân cách của ông đã trở thành thần tượng, thành huyền thoại, thành niềm kiêu hãnh và tấm gương sáng cho các thế hệ học trò và đồng nghiệp trong nước và quốc tế.
Lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm, Lịch sử và lịch sử văn hóa Việt Nam, Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam.
Các công trình và giải thưởng khoa học tiêu biểu của ông:
Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê Sơ, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959.
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập II, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1960; in lần thứ hai, 1962.
Tìm hiểu thêm về phong trào nông dân Tây Sơn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1961. Khởi nghĩa Lam Sơn (đồng tác giả), in lần thứ ba, có bổ sung và sửa chữa, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977; in lần thứ tư, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2005.
Lịch sử Việt Nam (đồng tác giả), tập I, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983; tái bản 1985, 1991.
Về quá trình dân tộc của lịch sử Việt Nam, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1990.
Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay (Chủ biên), tập II, Hà Nội, 1996; tập III, Hà Nội, 1997.
Tìm về cội nguồn, tập I, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1998; in lần thứ hai, 1999; tập II, 1999.
The country life in the Red River delta (Co-author), The gioi Publisher, Hanoi, 1999
Vietnam, Art et Culture de la préhistoire à nos jours (đồng tác giả), Nxb. Snoeck, Bruxelles-Vienne, 2003.
Địa bạ cổ Hà Nội (Chủ biên), tập I, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2005, in lần thứ hai, 2010; tập II, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2008, in lần thứ hai, 2010.
Lịch sử và Văn hóa Việt Nam, Tiếp cận bộ phận, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007; in lần thứ hai, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2012.
Lịch sử Thăng Long - Hà Nội (Chủ biên), 2 tập, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2012.
Lịch sử Việt Nam (Chủ biên), tập I+II, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2012
Lịch sử Quân sự Việt Nam (Chủ biên), tập V, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013.
Giải thưởng khoa học tiêu biểu:
Giải thưởng Nhà nước và khoa học và công nghệ năm 2000 cho công trình Tìm về cội nguồn (2 tập).
Giải thưởng Hồ Chí Minh cho công trình “Lịch sử và Văn hóa Việt Nam - Tiếp cận bộ phận”.